Trong Kinh Thánh có lời tiên tri rằng,
vào thời khắc tối hậu của nhân loại, sau khi người Israel phục quốc, Cứu
Thế Chủ Messiah sẽ tới nhân gian. Còn Kinh Phật ở phương Đông nói rằng
khi hoa Ưu Đàm Bà La khai nở, Phật Di Lặc tương lai sẽ hạ thế phổ độ
chúng sinh. Hiện tại, những sự việc được tiên tri đã lần lượt xuất hiện,
Cứu Thế Chủ của cả Đông và Tây phương phải chăng đã tới ngay bên cạnh
chúng ta?
Cả Kinh Phật và Kinh Thánh đều đề cập tới
nhân loại thời mạt kiếp ắt sẽ có Cứu Thế Chủ giáng thế cứu vãn chúng
sinh. Kinh Phật cho rằng thời mạt pháp sẽ có vị Phật tương lai là Di Lặc
hạ thế cứu độ chúng sinh, còn Kinh Thánh tin rằng khi thời mạt kiếp
tới, tất sẽ có Cứu Thế Chủ Messiah giáng thế cứu vãn chúng sinh. Nếu như
Kinh Phật và Kinh Thánh là đáng tin cậy, thì như vậy nhân loại nhất
định sẽ xuất hiện hai Cứu Thế Chủ, ngoại trừ trường hợp Di Lặc trong
Kinh Phật chính là Messiah trong Kinh Thánh.
Phật Di Lặc và Messiah là cùng một người?
Cố học giả của nền giáo dục Trung Quốc,
nhà Phật học, nhà phiên dịch Quý Tiện Lâm và các đồ đệ của ông đã có một
cống hiến quan trọng, đó là phát hiện mối liên hệ giữa Phật gia và Cơ
Đốc giáo, ấy chính là “Vị lai Phật Di Lặc của Phật gia và Cứu Thế Chủ
Messiah của Cơ Đốc giáo là cùng một người”.
Theo nghiên cứu của Đại học Phục Đán
Thượng Hải, vào khoảng năm 1.000 TCN, trong một vùng rộng lớn bao gồm
Tây Á, Bắc Phi, Tiểu Á, lưu vực Lưỡng Hà và Ai Cập, có một thứ tín
ngưỡng thịnh hành về Cứu Thế Chủ của tương lai, và Messiah trong Đạo của
Chúa Jesus chính là một loại tín ngưỡng có tính đại biểu nhất. Thực ra
loại tín ngưỡng này đã có mặt ngay trong kinh Cựu Ước. Tín ngưỡng Di Lặc
của Ấn Độ, theo xác nhận của giới học thuật, là có tương quan mật thiết
với tín ngưỡng Cứu Thế Chủ trên phạm vi toàn thế giới; do vậy xét về
ảnh hưởng, tín ngưỡng Di Lặc của Ấn Độ chính là một bộ phận hợp thành
của tín ngưỡng Cứu Thế Chủ. Nếu dùng ngôn ngữ đơn giản nhất mà diễn đạt,
thì Di Lặc chính là Vị lai Phật, là Cứu Thế Chủ tương lai. Nguồn gốc ở
Ấn Độ và phạm vi lưu truyền rộng lớn thời cổ đại của tín ngưỡng này
chính là một bộ phận của tín ngưỡng vào Messiah.
Hai chữ “Di Lặc” (弥勒) trong tiếng Hán từ
đâu mà đến? Thực ra, điều này liên quan đến một trong những bí mật lớn
nhất của văn minh nhân loại lần này.
Theo khảo cứu từ «Quý Tiện Lâm văn tập»,
quyển thứ 12 “Mai Lợi Da và Di Lặc”, thì đa số nguyên bản Kinh Phật thời
kỳ đầu đều là “Hồ bản”, tức dùng văn tự của ngôn ngữ Trung Á và Tân
Cương cổ đại để viết, chứ không phải là chữ Phạn quy phạm của Ấn Độ. Do
đó, hai chữ “Di Lặc” rất có thể đến từ thứ tiếng Tocharian của Tân
Cương, là dịch âm trực tiếp từ chữ “Metrak” hoặc “Maitrak”; chữ này rất
có quan hệ với chữ “maitri” (từ bi, từ ái) trong tiếng Phạn, do đó “Di
Lặc” dịch ý thì chính là “Từ Thị” (người có lòng từ). Vì vậy, ngay từ
thời hậu Hán và Tam Quốc ở Trung Quốc, trong một lượng lớn tư liệu Phật
điển dịch tiếng Hán đều xuất hiện đồng thời “Di Lặc” và “Từ Thị” (Bồ
Tát).
Nếu quả thực như vậy, khái niệm Di Lặc
xét về thời gian và bề rộng thì vượt khỏi phạm trù Phật giáo. Tại Trung
Quốc, tín ngưỡng sớm nhất của dân chúng không phải là Quan Thế Âm Bồ
Tát, cũng không phải là A Di Đà Phật, mà là Di Lặc Bồ Tát. Người ta phát
hiện rằng, tín ngưỡng Di Lặc ngay từ đầu đã là đúc kết tinh hoa văn hóa
của toàn bộ nền văn minh thế giới, chứ không chỉ hạn cuộc trong Phật
giáo, ngoại trừ khái niệm về Bồ Tát ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa nhân
loại.
Di Lặc, trong tiếng Sanskrit gọi là
“Maitreya”, tiếng Pali gọi là “Metteya”, và gần như không có quan hệ gì
về phát âm với hai chữ “Di Lặc” trong tiếng Hoa. Pháp sư Huyền Trang của
Đại Đường trong khi phiên dịch đã phát hiện thấy điểm này, bởi vậy
Huyền Trang mới nói là dịch sai, và lẽ ra nên phiên dịch thành “Mai Lợi
Da”. Tuy nhiên người ta không tiếp thụ ý kiến của vị cao tăng đáng kính
Huyền Trang, lại còn cố định gọi thành “Di Lặc”, và “Mai Lợi Da” đã trở
thành phát minh cá nhân của pháp sư Huyền Trang.
Vị Thần mà người Tây phương chờ đợi gọi
là “Messiah” trong tiếng Anh, tiếng Hán phiên thành “Di Trại Á”, và bắt
nguồn từ chữ “Masiah” trong tiếng Hebrew (có lúc viết thành “Mashiach”).
Tiếng Hy Lạp phiên dịch thành “Christos”, bởi vậy mới có chữ “Christ”
(Cơ Đốc). “Messiah” và “Christ” về cơ bản là có nghĩa tương đương, và
Tân Ước coi Chúa Cứu Thế tương đồng với Messiah của Do Thái giáo.
Hai chữ “Maitreya” và “Masiah” có âm rất
gần. Trên thực tế, “Di Lặc” nguyên từ tiếng Tocharian của Tân Cương và
“Messiah” nguyên từ tiếng Hebrew của Israel là một từ đồng nhất, chẳng
qua ở Tây phương đọc là “Messiah”, ở Ấn Độ đọc là “Maitreya”, còn ở
Trung Quốc đọc là “Di Lặc”. Tình huống ngôn ngữ này cũng rất hay gặp
trong lịch sử văn minh nhân loại.
Chùa Labrang ở Cam Túc, Trung Quốc là
một trong những ngôi chùa chính của Phật giáo Tây Tạng. Trong chùa
Labrang là một tượng đồng mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng của Đại Phật
Di Lặc, vị Phật tương lai, ám chỉ Phật Di Lặc rời khỏi ngai mang Pháp
Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân.
Tạo hình tượng Phật trong chùa Labrang ở Cam Túc ẩn chứa huyền cơ
Theo Kinh Phật ghi lại, Di Lặc là Phật
hiệu của “vạn vương chi Vương” khi hạ xuống từ tầng tối cao vào thời mạt
thế, còn Pháp Luân Thánh Vương là Pháp hiệu của “vạn vương chi Vương”
khi hạ xuống Pháp giới (nhân gian gọi là Chuyển Luân Thánh Vương), do đó
Phật Thích Ca Mâu Ni mới nói với các đệ tử của Ngài rằng: Pháp Luân
Thánh Vương cũng được gọi là Di Lặc.
Từ bi, chói sáng, hy vọng là nội hàm tinh
thần của Phật Di Lặc tương lai. Trong chùa Labrang (Lạp Bặc Lăng) thuộc
huyện Hạ Hà, châu tự trị dân tộc Tạng ở miền nam Cam Túc, Trung Quốc có
một vài bức tượng tiết lộ huyền cơ về Phật Di Lặc hạ thế độ nhân.
Chùa Labrang được xây vào những năm Khang
Hy của triều Thanh (năm 1709), là một trong lục đại tông chủ của Cách
Lỗ phái (Hoàng giáo) trong Phật giáo Tây Tạng. Nguyên tên của chùa Lạp
Bặc Lăng rất dài, gọi tắt là chùa Trát Tây Kỳ, ý tiếng Hán là “chùa Cát
Tường”.
Bởi vì đời thứ nhất và đời thứ hai chủ
xây chùa này đều là các Phật sống thâm hiểu thiên cơ, nên cách tạo tượng
của chùa Labrang cũng ẩn chứa huyền cơ, đặc biệt tạo tượng lưỡng tôn Di
Lặc Đại Phật trong chùa có ý vị rất thâm thúy.
Tại hậu điện phía Tây, bên cạnh đại sảnh
đường trong tự viện thờ cúng một tượng đồng Đại Phật Di Lặc mạ vàng tư
thế nửa ngồi nửa đứng, hai tay Phật đặt trước ngực. Theo lời giải đáp
của vị Lạt-ma hướng dẫn khách du lịch khi được hỏi về tư thế tay của
Phật thì: “Đây là Di Lặc Phật đang hướng về thế gian chuyển Pháp Luân!
Ngài nửa đứng nửa ngồi, ám chỉ Di Lặc Phật sắp đem Pháp Luân tới nhân
gian cứu độ thế nhân”. Nghe nói nguyên danh Trát Tây Kỳ của chùa Labrang
(ý Cát Tường) chính là có hàm nghĩa Pháp Luân chuyển động hiện Cát
Tường.
Ở chính giữa Đại Kim Ngõa Điện thờ cúng
Đại Phật Di Lặc là một tượng đồng mạ vàng từ hơn 200 năm trước, do hai
đời chủ chùa này đặc biệt mời thợ thủ công từ Nepal đúc thành, tượng
Phật cao 10 mét. Ngay bên dưới, phía trước mặt tượng Phật Di Lặc là một
pho tượng Phật nhỏ bằng đồng thờ Phật Thích Ca Mâu Ni. Cách bài trí
tượng hai vị tôn Phật, một trước một sau, một lớn một nhỏ, một cao một
thấp trong cùng một tế đàn này quả thực là hiếm thấy.
Theo giải thích của vị Lạt-ma hướng dẫn
khách tham quan thì: “Các bức tiểu Phật ở phía trước là Phật Thích Ca
Mâu Ni và đệ tử của Ngài, còn Phật Di Lặc ở đằng sau, tay cầm Pháp Luân.
Ngài là vị Như Lai có thần thông tối quảng đại, với năng lực lớn nhất
trong vũ trụ; Ngài mang Pháp Luân tới cứu độ chúng sinh trong vũ trụ,
tức Ngài là Đấng Cứu Thế duy nhất của chúng sinh toàn vũ trụ”. Không khó
để phát hiện, cách tạo tượng đột nhiên hiện rõ Phật Di Lặc (Chuyển Luân
Thánh Vương) với tầng thứ cực cao, Pháp lực cực lớn, mang theo từ bi
hồng đại tới cứu độ toàn nhân loại. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong
ngôi chùa này, điện đường thờ cúng Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là Tiểu
Kim Ngõa Điện, còn Di Lặc Phật Điện được gọi là Đại Kim Ngõa Điện.
Thần tại cõi người
Trong Kinh Thánh, cho dù là Tân Ước hay
Cựu Ước, đều tiên tri rằng Cứu Thế Chủ Messiah sẽ tới vào thời khắc cuối
cùng của nhân loại. Theo truyền thuyết tôn giáo thì trước khi Cứu Thế
Chủ Messiah tới nhân gian, một dấu hiệu là người Israel phục quốc, sau
đó người ta có thể nhìn thấy Cứu Thế Chủ Messiah.
Sau khi đại chiến thế giới thứ II kết
thúc, người Israel sau khi trải qua mấy nghìn năm lưu lạc trên thế giới
cuối cùng đã phục quốc. Ngày 13 tháng 5 năm 1948, trong đại hội Do Thái,
Jerusalem đã tuyên bố bản tuyên ngôn về “Israel phục quốc”. Tuy xã hội
chủ lưu Tây phương là Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, v.v. nhưng Israel là
Do Thái giáo, bởi vậy nhằm khống chế Jerusalem (một điều kiện để Thần
trở lại), trong hơn nửa thế kỷ qua, xã hội chủ lưu Tây phương đã một mực
duy trì giúp đỡ Israel. Về điểm này, họ đã hoàn toàn gác sang một bên
sự phân tranh tôn giáo trong lịch sử.
Tại Đông phương cũng có ghi chép về một
tín hiệu trọng đại báo hiệu Phật Di Lặc tương lai (Chuyển Luân Thánh
Vương) hạ thế. Quyển 8 Kinh Phật «Huệ Lâm Âm Nghĩa» ghi rõ: “Ưu Đàm Bà
La hoa là loài hoa linh dị mang điềm lành, tức Thiên hoa, trên thế gian
không có. Khi Như Lai hạ thế, Kim Luân Vương xuất hiện ở thế gian, thì
nhờ đại phúc đức của Ngài mà xuất hiện loài hoa này”.
Hoa Ưu Đàm Bà La nở rộ tại tiểu bang Maryland ở Mỹ, năm 2011 (Ảnh: John Yu)
Kinh Phật «Vô Lượng Thọ» cũng ghi lại như
sau: “Ưu Đàm Bà La hoa là dấu hiệu báo điềm lành”. Còn theo quyển 4
kinh «Pháp Hoa Văn Cú» thì: “Ưu Đàm hoa, có nghĩa là may mắn linh
thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất
hiện”.
Kể từ năm 1992, tại Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Australia, các tiểu
bang nước Mỹ, Canada, các tỉnh Trung Quốc, người ta liên tục phát hiện
hoa Ưu Đàm Bà La thánh khiết khai nở. Chúng ta có thể tìm thấy trên mạng
và chiêm ngưỡng phong thái cao quý thánh khiết của loài hoa này. Hoa Ưu
Đàm không có rễ, không có lá, không có nước, không có đất; có thể mọc
trên thủy tinh, sắt thép, tượng Phật, lá cây, hộp giấy và cả băng keo,
có hoa mọc hơn 1 năm nhưng vẫn sinh cơ bừng bừng. Từ xưa tới nay chưa
gặp bao giờ, nay các nhà thực vật học đã tận mắt chứng kiến. Năm nay
(2011), theo Phật ký là năm 3038, hoa Ưu Đàm Bà La đã thịnh khai tại các
nơi trên thế giới, thực đúng là thiên thượng ban tặng.
Cách tạo tượng dân gian và dự ngôn hiển rõ thiên cơ
Trong dân gian Trung Quốc bảo lưu một
phương thức tạo hình Di Lặc, một pho tượng Phật cười ngạo nghễ, vây
quanh có 18 tiểu hài tử, nô đùa muôn hình muôn vẻ, được gọi là “Thập bát
tử Di Lặc”. Thế nhưng “Thập bát tử” (十八子) hợp thành một chữ “Lý” (李),
tức báo trước Phật Di Lặc hạ thế truyền Pháp độ nhân vào thời mạt kiếp
với phàm thân có họ là “Lý”. Truyền thuyết và cách tạo tượng Di Lặc thập
bát tử này đã lưu truyền mãi cho đến ngày nay.
Dự ngôn «Cách Am Di Lục»
của Hàn Quốc tiên tri: “Hà vi Thánh nhân, Mộc Tử tính thị” (“Thánh nhân
là ai, họ là Mộc Tử”; “Mộc Tử” (木子) ghép thành chữ “Lý” (李)), thuộc
Thỏ, tháng Tư xuất sinh tại phía Bắc tam bát cấp (vĩ tuyến 38 độ Bắc
phân chia Nam-Bắc Triều Tiên), Tam Thần sơn hạ (dưới chân núi Tam Thần
sơn, tức Công Chủ Lĩnh dưới chân núi Trường Bạch)… Vị Thánh nhân này là
“vương trung chi Vương” (Vua của các vua) trên thiên thượng, tức Pháp
Luân Thánh Vương, lần này hạ phàm nhân gian gọi là Di Lặc Phật.
Lưu Bá Ôn cũng từng tiên tri trong dự
ngôn «Thôi Bi Đồ» rằng: “Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề
thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời
niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đến trung thiên, nhận Mộc
Tử vi tính”. Nghĩa là Phật Di Lặc tương lai sẽ chuyển sinh đến “trung
thiên Trung Quốc” vào năm Thỏ, cụ thể là giáng sinh tại vị trí “mắt Gà
Vàng” (Kim Kê mục) trên bản đồ Trung Quốc (chỉ tỉnh Cát Lâm), lấy “Mộc
Tử” (Lý) làm họ.
Ngày 13 tháng 5 năm 1951, tức ngày mùng 8
tháng Tư theo Nông lịch, người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí
đản sinh tại thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc, thuộc
Thỏ, ngày này chính là “Lễ Phật đản” trong Phật giáo. Đồng thời ngày này
cũng chính là ngày thứ 50 tính từ Lễ Phục Sinh năm 1951, gần như là “Lễ
Thánh Linh giáng lâm” trong Cơ Đốc giáo. Tới đây, một số người thông
hiểu thiên cơ đã biết được vì sao “Lễ Phục Sinh”, một ngày lễ trọng yếu
của tôn giáo Tây phương lại được gọi là “Easter”, tức “người phương
Đông”. Đồng thời, cũng hiểu vì sao người ta vẫn duy trì tập tục cổ xưa
là Thỏ Phục Sinh (Thánh nhân thuộc Thỏ) và trứng Phục Sinh (có quan hệ
với Kim Kê Trung Quốc) để kỷ niệm hoạt động này. Vào Lễ Giáng Sinh ở
phương Tây, nhà nào cũng chuẩn bị và trang trí một cây thông Noel (thuộc
Mộc), còn ám chỉ Thần ý huyền diệu khiến người ta kinh ngạc hơn nữa.
Nostradamus người Pháp trong tác phẩm
«Các Thế Kỷ» đã tiên tri chính xác rất nhiều nhân vật và sự kiện trọng
đại phát sinh tại các nơi trên thế giới mấy trăm năm qua, trong đó Các
Thế Kỷ II, Khổ 29 đã dự ngôn minh xác về Cứu Thế Chủ cứu độ chúng sinh
tại nhân loại vào thời mạt thế.
Các Thế Kỷ II, Khổ 29
Người phương Đông sẽ rời chỗ của Ngài,
Vượt qua dãy núi Apennine để trông thấy nước Pháp:
Ngài sẽ bay vượt qua bầu trời, nước và tuyết,
Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài.
Bài thơ này chính là tiên tri người sáng
lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí, sau khi kết thúc truyền Pháp tại
Trung Quốc Đại Lục sẽ sang Tây phương và truyền Pháp tại rất nhiều quốc
gia Tây phương, khiến Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền toàn thế giới.
Trong Các Thế Kỷ X, Khổ 75, Nostradamus cũng đề cập đến “Thần Hermes vĩ
đại” để hình dung người sáng lập Pháp Luân Công hồng truyền Đại Pháp
chính là giảng và truyền Đạo vũ trụ của Thần Phật cho nhân loại. Mà
“Thần Hermes vĩ đại” có một cây thần trượng, dùng để đánh thức người
đời, do đó câu thứ tư bài thơ trên mới nói “Đánh thức mọi người bằng cây
gậy Thần của Ngài”. Khi Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền, mỗi cá nhân
trên thế giới đều bị đánh động, và thái độ của họ đối với Đại Pháp sẽ
quyết định tương lai của chính họ.
Theo Kinh Phật ghi lại, Chuyển Luân Thánh
Vương cũng như Đức Phật, có 32 tướng, 7 bảo; Ngài không dùng vũ lực, mà
dùng chính nghĩa để xoay chuyển bánh xe Chính Pháp, cuối cùng trở thành
vị Vua lý tưởng của thế giới. Bất kể theo Phật giáo, Cơ Đốc giáo, Nho
giáo, chỉ cần khoan dung với mọi người, thì đều có thể có duyên gặp
Chuyển Luân Thánh Vương. Thế nhưng việc tốt hay gặp trắc trở, Thần đến
thật rồi, mà con người vẫn nghi hoặc không tin.
Thế nhân trong mê bất tỉnh
Theo tục truyền, Bố Đại hòa thượng là hóa
thân thế tục của Phật Di Lặc. Vào ngày 2 tháng 3 năm Trinh Minh thứ 2
triều Hậu Lương (năm 916 SCN), trước khi tạ thế, ông lưu lại bài kệ khắc
trên bia đá trong chùa Nhạc Lâm như sau: “Di Lặc chân Di Lặc, Phân thân
thiên bách ức, Thời thời thị thời nhân, Thời nhân tự bất thức” (Di Lặc
ấy là Di Lặc thật, Phân thân hàng trăm nghìn vạn, Lúc nào cũng thị hiện
người đời, Chỉ bởi người không tự biết).
Bài kệ trước khi viên tịch của Bố Đại hòa
thượng đã nói với người đời rằng, khi Phật Di Lặc tương lai hạ thế độ
nhân, bất chấp chân tướng không ngừng triển hiện, thế nhân vẫn không thể
đối diện với hiện thực.
“Phúc âm John” trong Kinh Thánh viết
(1:10-11): “Ngài đã vào thế gian, thế gian đã được tạo nên bởi Ngài,
nhưng thế gian chẳng nhận biết Ngài. Ngài đã đến với dân Ngài, nhưng dân
Ngài không tin nhận Ngài”. Kinh Thánh còn nói khi Cứu Thế Chủ giáng thế
cứu người, ánh sáng của Ngài sẽ chiếu rọi thế giới trong nháy mắt, tựa
như tia chớp từ trời tỏa sáng không trung. Thế nhưng người đời không
nhận Ngài là Đấng Cứu Thế, lại để Ngài phải chịu khổ không ít, thậm chí
còn bị thế nhân không rõ chân tướng gièm pha.
Trong «Các Thế Kỷ» có một bài thơ nổi tiếng minh xác về thời gian, đó là Các Thế Kỷ X, Khổ 72 tiên tri về đại sự kiện:
Vào năm 1999, tháng 7,
Để Đại vương Angoulmois phục sinh,
Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống,
Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ,
Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người.
Ngày 20 tháng 7 xác thực là một ngày đặc
thù, được «Các Thế Kỷ» tiên tri là Giang Trạch Dân, kẻ chống Chúa, sẽ
phát động cuộc đàn áp toàn diện đối với những người tu luyện Pháp Luân
Đại Pháp. Cuộc đàn áp gây bao đổ máu, phỉ báng lừa dối, tạo ma nạn tại
Trung Nguyên, mê hoặc thế nhân khiến họ phạm tội. Đây chính là trận đại
chiến Chính-tà tối hậu Armageddon giữa Chiên Con và thú mà “Khải Huyền”
nhắc tới, đến nay đã 12 năm. Đối diện với ma nạn, vô số Thánh đồ đã kiên
nhẫn giảng rõ sự thật để thực hiện sứ mệnh cứu độ chúng sinh. Đảng Cộng
sản Trung Quốc ngang nhiên chống lại Phật Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn” của vũ
trụ, đã rơi vào vũng bùn trong cuộc đọ sức Chính-tà này. Câu sấm “Cửu
thập cửu niên thành đại thác” (Năm 99 thành sai lầm lớn) của dự ngôn
«Thôi Bối Đồ» triều Đường đã trở thành sự thực.
Cuối cùng hướng về Thần
Kinh «Trường A Hàm», quyển 18 viết:
“Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế… thời các tiểu vương tại Đông phương
thấy Đại Vương, đều dâng châu báu quy thuận. Ngoài ba phương Nam, Tây,
Bắc đều như vậy”.
“Khải Huyền” của Kinh Thánh viết
(7:9-10): “Sau những việc đó, kìa, tôi thấy một đám đông rất lớn, không
ai có thể đếm được, từ mọi quốc gia, bộ lạc, dân tộc, và ngôn ngữ đứng
trước ngai và trước Chiên Con; ai nấy đều mặc áo choàng trắng và tay cầm
cành thiên tuế. Họ cùng nhau cất tiếng hô vang rằng, ‘Ơn cứu rỗi thuộc
về Đức Chúa Trời chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và thuộc về Chiên Con’.”
Cho dù phải trải qua bao nhiêu ma nạn,
cuối cùng con người cũng đều hướng về Thần; những người này đến từ các
phương, các nước, các dân tộc. Kinh Phật và Kinh Thánh đều nhất trí khi
miêu tả điểm này.
Tân Thiên, tân Địa, tân nhân loại
Sau khi Cứu Chủ giáng thế cứu vãn chúng sinh, nhân gian sẽ nghênh đón tân Thiên, tân Địa, tân nhân loại.
Kinh «Di Lặc Hạ Sinh» viết: “Quốc thổ đều
phú thịnh, vô phạt vô tai ách; nam nữ đều do thiện nghiệp sinh. Đất
không cây gai, chỉ sinh cỏ xanh, thuận theo gót chân, mềm như tơ tằm. Tự
nhiên xuất lúa thơm, mỹ vị đều sung túc. Cây cối sinh y phục, màu sắc
đều trang nghiêm; cây cao ba tòa nhà, hoa quả thường dư dật. Lúc ấy
người trong nước, đều thọ tám vạn năm, không có khổ bệnh tật, đầu óc
thường an lạc.”
“Isaiah” của Kinh Thánh viết (65:19-20):
“Tiếng than khóc sẽ không còn nghe trong thành ấy; Tiếng khóc than sẽ
vĩnh viễn không còn. Trong thành ấy trẻ thơ sẽ không chết yểu; Không
người già nào không hưởng trọn tuổi thọ của mình; Vì ai trăm tuổi mà qua
đời sẽ bị xem là chết yểu; Người chưa được bách niên mà phải lìa đời sẽ
bị xem là bị nguyền rủa”. “Isaiah” (65:23-25): “Chúng sẽ không lao động
một cách luống công; Chúng sinh con ra chẳng phải để chuốc lấy âu sầu,
Vì con cháu chúng sẽ là dòng dõi của những người được CHÚA ban phước, Và
dòng dõi của chúng tiếp theo chúng nữa. … Chúng sẽ không gây tổn hại
hay phá hoại trong khắp núi thánh của Ta,’ CHÚA phán vậy”. “Khải Huyền”
của Kinh Thánh cũng miêu tả tân Thiên, tân Địa như sau (22:2): “Giữa
quảng trường của thành, nơi rẽ ra của hai nhánh sông, có một cây sự sống
sinh trái mười hai đợt, mỗi tháng một đợt, và lá của cây ấy được dùng
để chữa lành các dân”.
Bởi vậy, sau khi trải qua trận đại chiến
Chính-tà này, những người có đạo nghĩa, duy hộ Phật Pháp sẽ được lưu lại
và có phúc. Họ sẽ trường thọ an lạc, vô phạt vô tai, hoa quả sung túc,
mỹ vị phong phú, chung sống hòa thuận, không tranh không đấu, nhân loại
từ đó tiến nhập vào kỷ nguyên mới.
(Hết)
[Nguồn: Chanhkien.org]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét